Gunter Giesenfeld: “Nỗi buồn chiến tranh” hay hơn “Không có gì lạ ở phương Tây”

Günter Giesenfeld, giáo sư văn học Đức, sang Việt Nam tham gia Hội nghị quốc tế về quảng bá văn học Việt Nam lần thứ 3. Ông chia sẻ công việc gần chục năm dịch và giới thiệu văn học Việt Nam sang tiếng Đức. đến đây.

– Cuốn tiểu thuyết tiếng Việt cuối cùng mà anh dịch – “Nỗi buồn chiến tranh” của Bain Ninh (sau khi phát hành ở Đức vào tháng 6 năm 2014) đứng đầu trong số 7 cuốn tiểu thuyết xuất sắc. Hiệp hội Văn hóa Litprom, quý I năm 2015. Bạn có thể chia sẻ thêm thông tin về thông tin này.

– “Cái chết của Leiden” là bản dịch tiếng Đức đầu tiên của “Nỗi buồn chiến tranh”. Litprom là Hiệp hội Văn hóa Đức khu vực Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh dưới sự bảo trợ của Bộ Ngoại giao Đức và hợp tác với nhiều tổ chức văn hóa khác như Hội chợ sách Frankfurt hay kênh truyền hình Arte.

Hàng năm, Litprom xếp hạng 7 cuốn sách hay nhất thế giới trong hạng mục “Tiếp cận Văn hóa Thế giới”. Nằm trong danh sách này rất có lợi cho cuốn sách, bởi vì chỉ cần nó còn ở đây, nó được coi là một cuốn sách cần thiết. Nỗi buồn của cuộc chiến Boning đã chiếm lĩnh bảng vào mùa xuân năm 2015.

Sau khi gắn bó với Việt Nam gần nửa thế kỷ, Giáo sư Günter Giesenfeld đã dịch và giới thiệu văn học Việt Nam sang Đức.

Tại sao lại thế này? Bạn có chọn dịch “Nỗi buồn chiến tranh” không?

– Có rất nhiều tiểu thuyết chiến tranh kinh điển trên thế giới. Một trong số đó là “Mọi thứ yên lặng ở mặt trận phía Tây” của Erich Maria Note về “Thế chiến thứ nhất”. Tôi nghĩ tiểu thuyết của Boning còn hay hơn tiểu thuyết của Knott. Bởi phương Tây không lạ gì tiểu thuyết phản chiến, nhưng cũng không lạ gì phản chiến với nghĩa phản đối mọi cuộc chiến. Trên thực tế, một số cuộc chiến đòi hỏi sự chiến đấu vì sự sống còn của nhân loại hơn những cuộc chiến khác, chẳng hạn như các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, lập trường của phương Tây không có gì đáng ngạc nhiên, nó ngụ ý rằng mọi cuộc chiến đều tồi tệ và cần phải phản đối. Tôi nghĩ rằng quan điểm này là hạn chế.

Nỗi buồn chiến tranh là duy nhất. Đồng thời, nó mô tả một cuộc chiến tranh Việt Nam cụ thể và cho thấy bản chất của bạo lực nói chung. Khi đọc câu chuyện này, anh ấy thậm chí còn không thể tìm ra câu trả lời cho mặt nào tốt và mặt nào không tốt. Bảo Ninh trước hết phải mô tả đầy đủ hậu quả của bạo lực. Người ta phải giết nhau để bảo vệ chiến trường của mình, đây là nơi dạy người ta giết nhau mà không hiểu tại sao lại phải giết nhau. Thậm chí, chiến tranh còn khiến nhân vật ác nhân (người yêu của nhân vật chính – Ken bị cưỡng hiếp).

Ngoài ra, nỗi buồn chiến tranh là có thật, nhờ lịch sử tình yêu giữa các nhân vật chính. Nhân vật và bạn gái tên Phương-rất cá tính. Tôi đánh giá cao cách tác giả kết hợp truyện chiến tranh và truyện tình yêu. Đặc biệt, phân đoạn của cuốn tiểu thuyết này nên được gọi là một đoạn tuyệt tác của văn học chiến tranh: Trường và Phương đi tàu hỏa đến Vinh, tàu bị đánh bom, Phương bị cưỡng hiếp, rồi đến Kiên. Tưởng đã mất Phương, cuối cùng người ta thấy cô đang tắm ở hồ. Cảnh này sâu sắc về nội dung và bối cảnh. Văn Bảo Ninh tuy rất say mê nhưng cũng rất kiềm chế, văn phong của tiểu thuyết khéo léo, để câu chuyện được sắp xếp một cách có trật tự.

Tiểu thuyết của Bảo Ninh là kinh điển trên thế giới. Bạn đọc cuốn tiểu thuyết “Le chagrin de laionaryre” lần đầu tiên khi nào?

– Lần đầu tiên tôi nghe nói về sự tồn tại của cuốn sách này là khi nó bị cấm phát hành ở Việt Nam. Trong chuyến thăm của tôi đến Việt Nam năm 1997, những người bán hàng rong đề nghị mua tiểu thuyết tiếng Anh. Tôi nghĩ sẽ không ai ngăn cản những người bán sách bị cấm này. Tôi cầm cuốn sách lên đọc mà không có ấn tượng gì, tôi trả lại cho người bán hàng rong.

Hơn mười năm sau, khi chúng tôi tìm kiếm bản dịch trong văn học Việt Nam, tôi lại bắt gặp cuốn sách này. Sau đó, tôi quyết định rằng trước hoặc sau cuộc sống, tôi nên dịch nó. Khi dự án dịch thuật ngày càng khả thi, được sự đồng ý của nhà xuất bản và tác giả, tôi đã đọc lại cuốn sách lúc đó, nhưng là bằng tiếng Pháp, gần giống với nguyên tác “Baoning”. Tôi nhận ra rằng bản tiếng Anh mà tôi đang đọc năm 1990, được phổ biến ở Việt Nam, rất khác với bản gốc của Bảo Ninh. Vì người dịch và biên tập lúc đó là một nhà báo Úc, ông đã thay đổi nhiều chi tiết để độc giả phương Tây và Mỹ dễ sử dụng. Phiên bản tiếng Anh của cuốn sách này tốt hơn bây giờ.

“Nỗi buồn chiến tranh” và “Cảnh tượng phương Tây” của Boning trong “Chú thích”. Dịch “nỗi buồn chiến tranh”?

– Tôi dịch trướcTừ tiếng Pháp sang tiếng Đức, bởi vì tôi sử dụng tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ của mình. Sau khi viết xong bản thảo đầu tiên bằng tiếng Đức, Marianne Ngô (vợ tôi) và dịch giả Nguyễn Ngọc Tấn đã gửi bản thảo tiếng Đức và nguyên tác tiếng Việt “Bao Ning” cho chúng tôi để dịch thêm. Người Việt Nam, tham gia dự án thứ hai. Trong quá trình đó, vợ tôi và Tân đã sử dụng từ điển tiếng Việt.

Ngay trong bóng tối, dự án thứ hai không phải là Văn Đức. Bây giờ đến lượt tôi hoàn thiện phong cách của văn bản tiếng Đức. Chúng ta phải cho rằng cụm từ này mang một tâm hồn Đức và vẫn rất phù hợp với nghĩa tiếng Việt trong tiểu thuyết của Boning. Trong bản dịch cuối cùng, chúng tôi có rất nhiều ghi chú chi tiết.

– So với bản dịch của Nguyễn Huy Thiệp (2009), anh thấy khó dịch “Nỗi buồn chiến tranh” ở điểm nào? Hay “Bi kịch nhỏ” (2011) của LêMinh Khuê?

– Chúng tôi phải trả tiền bản quyền cho người Mỹ vì “Nỗi buồn chiến tranh” đã được bán cho các nhà xuất bản Mỹ. — Nỗi đau chiến tranh là một cuốn tiểu thuyết, và những cuốn sách chúng tôi đã dịch trước đây đều là truyện ngắn. Kịch bản và diễn biến cốt truyện của cuốn tiểu thuyết này phức tạp hơn, số lượng nhân vật cũng phức tạp hơn. Đặc biệt, Bảo Ninh thay đổi môi trường không-thời gian liên tục và đột ngột. Ngoài ra, ngữ pháp tiếng Việt không dễ để dịch sang tiếng Anh và tiếng Đức – cả hai ngôn ngữ này đều có ngữ pháp rất rõ ràng và cấu trúc từ chặt chẽ .—— Tiêu chí lựa chọn để dịch văn học Việt Nam sang tiếng Anh là tiếng Đức của bạn?

– Giá trị văn học và tiềm năng được độc giả Đức yêu thích. Hơn 90% nhà thơ và nhà văn Việt Nam không được biết đến ở Đức. Từ thời chiến tranh Việt Nam, tôi đã là bạn của ông Nguyễn Đình Thik. Sau đó, tôi dần tiếp xúc với các tác phẩm văn học của bạn. Tôi chủ yếu giới thiệu những gương mặt nhà văn Việt Nam hiện đại sau chiến tranh: Nguyễn Huy Thiệp, Bain Ninh, Lê Minh Khuê …—— Là một giáo viên dạy văn, tôi đánh giá cao điều này Cách điều trị hoạt động. Ví dụ, tôi thấy Bảo Ninh là một nhà văn cổ điển hiện đại, Bảo Ninh có văn học thế kỷ 20: phong cách viết và mô tả chi tiết của câu chuyện, thời gian và không gian được trộn lẫn. Sự pha trộn và thay đổi là rất tốt.

– Tác giả Việt Nam mà bạn định dịch tiếp là ai?

– Chúng tôi đang tìm kiếm một nhà văn, và biên tập viên của chúng tôi muốn một ví dụ về một gương mặt trẻ. Tôi đọc Nguyễn Ngọc Tư bằng tiếng Pháp. Cô ấy giỏi miêu tả những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày. Các tác phẩm văn học của Nguyễn Ngọc Tư thường lặp lại một chủ đề: cuộc sống và các vấn đề của người nghèo ở sông Mekong. Đàn bà còn cô đơn, tuổi mới lớn chưa muốn lấy chồng, tội nghiệp lắm. Những câu chuyện này luôn có đầy đủ về nước, ruộng đồng, chợ dân sinh, làng quê nhỏ. Tuy nhiên, vì là người bản xứ nên độc giả phương Tây có thể không quen với những chi tiết của Nguyễn Ngọc Tư.

Vì chúng tôi không đọc được tiếng Việt nên rất khó tìm tác giả Việt Nam khác để dịch. Bạn phải dựa trên các tiểu thuyết Việt Nam xuất bản bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, hoặc nhờ bạn bè đánh giá. Tôi cũng đang xem xét tác phẩm của Y Ban. Chúng tôi chắc chắn không biết có bao nhiêu khuôn mặt.

– Doanh số bán các tác phẩm dịch ở Đức và Việt Nam là bao nhiêu?

– Bộ sưu tập Hưu trí gần như đã được bán hết. Những cuốn sách như vậy là thành công. Bởi vì văn học Việt Nam hầu như không được biết đến ở Đức, sách chúng tôi dịch đều là bìa cứng, thiết kế đẹp, và do đó đắt hơn sách bìa mềm. Chúng gần giống như những cuốn sách về trí nhớ, nhưng chúng vẫn được bán. Một phần là do dịch thuật, chúng tôi mời Nguyễn Huy Thiệp đến giao lưu, quảng bá cuốn sách và anh đã nhận lời.

– Tôi đã tham gia nhiều hội thảo văn học Việt Nam, ông có ý kiến ​​gì về điều này, ví dụ như gần đây có văn học Việt Nam trong các hội nghị quốc tế không?

– Tôi đã nói nhiều lần rằng các cuộc hội thảo văn học nên có nhiều cuộc thảo luận học thuật hơn là một người đứng xem một bài giảng rồi ngồi xuống.

Tương tự, hội thơ của bạn cũng ồn ào như vậy. Đừng đọc thơ giữa chốn đông người. Nhà thơ ghi vào lòng mình. Đọc và ngâm thơ trong phòng nhỏ có ý nghĩa hơn là loa và nhạc lớn. Tôi không hiểu ý nghĩa của những hiệp hội thơ tuyệt vời này.

nhà cái bet365 có uy tín không?_ đăng ký bet365_tỷ lệ cược bet365